1. Tổng quan
Ngoài các đồng bằng và các châu thổ (sông Hồng, sông Cửu Long) không cao hơn mực nước biển bao nhiêu, Việt Nam còn có những cao nguyên nằm phía tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận. Những cao nguyên như vậy, thường được gọi là Cao Nguyên Trung Phần, còn gọi là Tây Nguyên (dưới đây sẽ viết tắt là TN) có rất nhiều đặc trưng nếu so sánh với các đồng bằng miền Trung về nhiều mặt, từ khí hậu, đất đai, chủng tộc, đến sử dụng đất đai.
Tây Nguyên là vùng cao nguyên, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, phía nam giáp các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, phía tây giáp với các tỉnh Attopeu (Lào) và Ratanakiri và Mondulkiri(Campuchia).
2. Các đơn vị hành chánh
Trước 1975, TN có các tỉnh: Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Lâm Đồng, Tuyên Đức, Quảng Đức. Sau 1975, theo sách Sổ tay Địa danh Việt Nam của Nguyễn Được-Trung Hải (Nhà xuất bản Giáo Dục), địa bàn Tây Nguyên có 5 tỉnh là Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng.
– Kontum có các huyện DakTo, DakGlei, KonPlong, Sa Thầy, Ngọc Hồi.
Huyện Sa Thầy và Ngọc Hồi giáp ranh với Campuchia, còn huyện DakGlei giáp với Ai Lao . Diện tích tỉnh Kontum là 11.560km2 với dân số năm 1997 là 260 000 người
– Gia Lai (tức Pleiku và Phú Bổn gom lại) với diện tích 16.211 km2 với dân số 815 000 người (1997)
– Đắk Lắk (tức tỉnh củ BanMeThuot) có 13 huyện Buôn Đôn, Cư Kuin, Cư M’gar, Ea H’leo, Ea Kar, Ea Sup, Krông Ana, Krông Bông, Krông Buk, Krông Năng, Krông Pak, Lak, M’Đrak .
– ĐakNong (tức tỉnh Quảng Đức trước 1975), tỉnh lỵ Gia Nghĩa, có 7 huyện: Cư Jút, Dak Mil, Dak Glong, Dak R’Lấp, Dak Song, Krong Nô và Tuy Đức
– Lâm Đồng (bao gồm Tuyên Đức và Lâm Đồng trước 1975) với diện tích 10 137km2 và dân số 828 000 người (1997).
Sau đây là diện tích và dân số:
Tỉnh | Diện tích (km2) | Dân số (1997) |
Kontum | 11 560 | 260 000 |
Gia Lai (Pleiku) | 16 211 | 815 000 |
DakLac(BanMeThuot) | 13 062 | 1 667 000 |
Dak Nong (Gia Nghĩa) | 6 514 | 363 000 |
Lâm Đồng (Dalat) | 10 137 | 828 000 |
Tổng diện tích Tây Nguyên là 57 484 km², nếu so với tổng diện tích Viet Nam là 331 210km2, thì chiếm 17%.
3. Khí hậu và địa hình
Vì TN có cao độ biến thiên từ 400 mét như ở Ban Mê Thuột đến 1500 mét như ở Dalat nên khí hậu cũng có nhiều biến thiên và đất đai cũng vậy. Tây Nguyên không phải là một cao nguyên duy nhất mà là một loạt cao nguyên liền nhau. Đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500 m, cao nguyên Kon Plông, cao nguyên Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng 800 m, cao nguyên M’Drăk cao khoảng 500 m, cao nguyên Buôn Ma Thuột cao khoảng 500 m, Mơ Nông cao khoảng 800–1000 m,cao nguyên Lâm Viên cao khoảng 1500 m và cao nguyên Di Linh cao khoảng 900–1000 m. Tất cả các cao nguyên này đều được bao bọc về phía Đông bởi những dãy núi và khối núi cao (chính là Trường Sơn).
Thực vậy:
- cao nguyên Lâm Đồng ở Dalat có chỗ cao độ 1200 mét, có chỗ như Bảo Lộc Di Linh chỉ 800 mét nên khí hậu cũng không đồng nhất ! Cùng một tỉnh Đak Lắc nhưng cao nguyên M’Drak (Khánh Dương) mưa ít hơn.
- cao nguyên Kontum cao độ quãng 500 mét, cao nguyên Pleiku 800 mét.
- TN, ngoài các cao nguyên, còn có những thung lũng rộng hẹp khác nhau. Những thung lũng lớn, bao quanh bởi các rặng núi cao thì phải kể thung lũng Cheo Reo (Phú Bổn củ) với khí hậu rất nóng vì cao độ chỉ 160 mét so với Pleiku là 800 mét, thung lũng Lạc Thiện ở Đông Nam thị xã Ban Me Thuot, thung lũng sông Sesan, v.v…
4. Sông ngòi
Để dễ hiểu, có thể chia hệ thống sông ngòi TN ra làm 2: hệ thống chảy ra Biển Đông và một hệ thống khác chảy về phía sông Mekong:
4.1. Hệ thống chảy về Biển Đông
4.1.1. Sông Ba
Sông Ba phát nguyên từ núi Ngoc Lĩnh thuộc Kontum, chảy theo hướng Bắc-Nam qua An Khê, đến Cheo Reo (Hậu Bổn) và sau đó chuyển sang phía Đông về Tuy Hoà.
Sông Ba dài 374 km, phát nguyên từ dãy núi bắc tỉnh Kontum, từ độ cao 1500 mét, chảy theo h ướng Bắc Nam qua các vùng An Khê đến Cheo Reo và từ đó chuyển qua hướng Đông đến Tuy Hoà. Bắc qua sông Ba ở gần Tuy Hoà có cây cầu rất dài đến 1512 m là cầu dài nhất ở miền Trung. Trên sông Ba có đập Đồng Cam xây từ thời Pháp thuộc . Lưu vực sông Ba khá rộng, diện tích lưu vực gần 14 000 km2 với vài phụ lưu quan trọng như sông Ayunh, sông Hinh.
– sông Hinh từ cao nguyên Dak Lac chảy vào Sông Ba ở Phú Yên.
– sông Ea Ayunh ở Phú Bổn.
4.1.2. Sông Đồng Nai
Sông Đồng Nai phát nguyên từ cao nguyên Dalat, chảy xuống Di Linh, qua địa phận cao nguyên Gia Nghĩa rồi mới chảy xuống miền Đông Nam phần, gặp sông La Ngà gần Định Quán và gặp sông Bé gần Tân Uyên, chảy ngang thành phố Biên Hoà, sau đó mới họp với sông Saigon ở Nhà Bè để chảy về Cần Giờ ở Biển Đông, đúng như ca dao:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
Trên sông Da Nhim ở thượng nguồn sông Đồng Nai đã có nhà máy thuỷ điện DaNhim xây từ thời Viet Nam Cộng Hoà công suất 160 Megawatt.
Sông Đồng Nai có phụ lưu lớn phải kể là sông Bé và sông La Ngà:
– sông Bé là phụ lưu bên phải sông Đồng Nai, chảy qua tỉnh Phước Long sau đó quặt sang phía Đ ông, chảy theo ranh giới giữa các tỉnh Bình Long, Bình Dương và Đồng Nai; trên sông Bé cũng có vài nhà máy thuỷ điện như Thác Mơ.
– sông La Ngà là phụ lưu bên trái sông Đồng Nai, phát nguyên từ vùng núi cao ở Blao, chảy về đồng bằng Võ Đát ở Bình Tuy (củ), và cũng có nhà máy thủy điện Hàm Thuận công suất 300 megawatt. Thực ra, thời Viet Nam Cọng Hoà, nhiều công ty kỷ sư Nhật đã có tường trình về khả năng thiết kế (feasibility study) các nhà máy này ở vùng La Ngà Bình Thuận/Bình Tuy nhưng chỉ thiếu điều kiện an ninh nên không làm được.
Trên sông Đồng Nai, có hồ chứa nước và nhà máy thuỷ điện Trị An.
4.2. Hệ thống chảy về sông Mekong
4.2.1. Sông Sesan
Bắt nguồn trong lãnh thổ Viet Nam, chảy qua hai tỉnh Gia Lai và Kontum với hai phụ lưu là Dak Bla và sông Pô Kô và chảy sau đó vào lãnh thổ Campuchia. Từ Pleiku đi Kontum, ta phải qua sông Dak Bla gần thị xã Kontum. Nằm phía Tây thị xã Kontum, vào thời chiến tranh, có một căn cứ quân sự trên ngọn đồi có tên Charlie đã được bất hủ hoá qua bài hát Người ở lại Charlie:
Anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie
Anh! Anh! Hỡi anh giã từ vũ khí
Vâng, chính Anh là ngôi sao mới, một lần này chợt sáng trưng, là cánh dù đan bằng tiếc thương vô cùng
Khi sông Sesan chảy vào địa phận Campuchia, sông xuyên qua hai tỉnh là Ratanakiri và Stungtreng và hợp lưu với sông Srepok từ vùng Darlac chảy đến và rồi chảy vào sông Mekong gần thành phố StungTreng.
Sông Sesan là một phụ lưu quan trọng của sông Mekong vì lưu vực rộng đến 17 000 km2 (11 000 km2 trong Viet Nam và 6 100 km2 trong KamPuChia). Toàn lưu vực sông Sesan có nhiều tiềm năng thủy điện vì phía hạ lưu, thung lũng sông nằm trong các hẻm sâu của các dãy núi cao, độ dốc địa hình khá lớn. Chính vì vậy nên ngay từ thời Đệ Nhất Cọng hoà, công ty Kỷ sư cố vấn Nhật Nippon Koei đã có những nghiên cứu sơ khởi về tiềm năng các đập thủy điện trên sông này và đặc biệt trên thác Yali nhưng vì an ninh nên không có cơ hội xây dựng. Ngày nay, có nhà máy thuỷ điện Yali công suất 720 Megawatt với diện tích hồ chứa nước là 64.5 km2, cao 69 mét (226 feet) .Nhà máy Yali này chỉ cách 70km đường biên giới với Campuchia. Còn phiá Campuchia cũng đang xây đập, thường gọi tắt là đập 3S, từ ba chữ StungTreng, Srepok, Sesan (tên khác: Lower Sesan 2 dam), công suất 400MW.
4.2.2. Sông Srepok
Sông Srepok là dòng sông lớn ở Darlac, với hai nhánh sông chính tại Darlac là sông Krong Ana và Krong Kno:
– Krong Ana chảy ở phía Đông-Nam tỉnh Dak Lac, theo hướng Đông-Tây và có nhiều phụ lưu như Krong Bông, Krong Buk, Krong Pak.
– Krong Knô (Krong Nô) bắt nguồn từ phía TB cao nguyên Lâm Viên chảy theo hướng ĐN-TB.
Krong Nô là một nhánh của sông Srepok, một chi lưu lớn của sông Mê Kông, dài 332km, là một trong những con sông lớn ở Đắk Lắk, bắt nguồn từ vùng núi cao Chư Yang Sin (> 2.000m) chạy dọc ranh giới phía Nam sau đó chuyển hướng lên phía Bắc (ranh giới phía Tây) và nhập với sông Krông Ana để trở thành dòng Serepôk thác ghềnh. Tổng diện tích lưu vực sông là 3920 km² và chiều dài dòng chính là 156km.
Krông Nô hiện đang là con sông ranh giới giữa hai tỉnh Lâm Đồng với Đắk Lắk và giữa Đắk Lắk với Đắk Nông, dọc theo con sông này là rất nhiều buôn làng người dân tộc bản địa với nhiều truyền thuyết về tên của dòng sông và vùng đất Krông Nô một huyện cùng tên thuộc tỉnh Đắk Nông.
– sông Ea H’leo: Sông Ea H’Leo là một trong những chi lưu của sông Serepôk. Sông bắt nguồn trên địa phận xã Dliê Ya, huyện Krông Năng ở độ cao 800 m. Sông có chiều dài 143 km, chảy qua hai huyện Ea H’leo và Ea Súp trước khi hợp lưu vào sông Serepôk. Sông Ea H’Leo có một nhánh chính quan trọng là suối Ea Súp, trên dòng suối này hiện tại có hai công trình thuỷ lợi lớn là Hồ Ea Súp Hạ và Hồ Ea Súp Thượng. Sông này có hai chi lưu là Ia Drang và Ia Sup ở phía Tây Pleiku, bắt nguồn từ dãy núi Chư Hron, chảy theo hướng Đông Tây) sau đó chảy vào sông Mekong sát StungTreng ( tỉnh StungTreng, Kampuchia).. Trước khi nhập vào, nó còn nhận nước từ sông Sesan. (Để mở một dấu ngoặc ở đây: chính tại thung lũng Ia Drang này có một trận đánh rất lớn giữa lính Bắc Việt và lục quân Mỹ năm 1965, thường đ ược nhắc nhở dưới danh xưng Plei Me).
Khi sông Srepok ra khỏi lãnh thổ Viet Nam thì hợp với sông Ea H’Leo (sông này có hai chi lưu là Ia Drang và Ia Sup ở phía Tây Pleiku, bắt nguồn từ dãy núi Chư Hron, chảy theo hướng Đông Tây) sau đó chảy vào sông Mekong sát StungTreng ( tỉnh StungTreng, Kampuchia).. Trước khi nhập vào, nó còn nhận nước từ sông Sesan. (Để mở một dấu ngoặc ở đây: chính tại thung lũng Ia Drang này có một trận đánh rất lớn giữa lính Bắc Việt và lục quân Mỹ năm 1965, thường đ ược nhắc nhở dưới danh xưng Plei Me).
Tính từ chỗ hợp lưu của sông Krong Ana và sông Krong Nô tới StrungTreng, nó dài 406 km, trong đó đoạn chảy trong lãnh thổ Việt Nam dài khoảng 126 km với nhiều thác ghềnh như DrayLinh, Dray Sáp .., đoạn chảy trong lãnh thổ Campuchia dài khoảng 281 km.
5. Lưu vực vài dòng sông ở Tây Nguyên
Sau đây là diện tích lưu vực vài dòng sông thuộc lưu vực sông Mekong, trích trong tài liệu Environment and Society in the Lower Mekong Basin: A Landscaping Review của Institute for Development Anthropology (99 Collier Street, P. O . Box 2207, Binghamton, New York 13902 USA).
Xứ | Sông | Lưu vực (km2) | Lưu lượng trung bình hàng năm (m3) |
Ai Lao | Nam Tha | 8.170 | 140 |
Nam Ou | 26.160 | 430 | |
Nam Suang | 6.290 | 100 | |
Nam Khan | 7,620 | 130 | |
Nam Ngum | 17.600 | 760 | |
Nam Nhiep | 4.690 | 240 | |
Nam Theum | 14.700 | 890 | |
Se Bang Fai | 9.470 | 410 | |
Se Bang Hien | 19.600 | 530 | |
Se Done | 7.170 | 230 | |
Thái Lan | Nam Mae Kok | 10.800 | 210 |
Nam Mae Ing | 8.290 | 110 | |
Nam Loei | 4 100 | 50 | |
Nam Songkhram | 12 700 | 300 | |
Mun Chi | 117.000 | 720 | |
Viet/Cambodia | Se San(+Srepok) | 76.700 | 2900 |
Cambodia | TonleSap | 84. 400 | 960 |
Prek Te | 4.170 | 85 | |
Prek Chlong | 5.750 | 90 | |
Prek Thnot | 5.050 | 60 |
Như vậy ta thấy diện tich lưu vực của sông Sesan/Sreopk ở TN quả thật rất lớn, so với nhiều dòng sông khác.Lưu vực sông Mekong ở Trung Quốc không lớn vì dòng sông Mekong chảy trong các thung lũng chật hẹp nên mức độ ảnh hưởng trên miền hạ lưu không nhiều như các dòng sông có lưu vực rộng lớn, trong đó lưu vực Sesan Srepok ở cao nguyên Việt Nam là một.
6. Các điểm tích cực và tiêu cực các đập thủy điện
Các đập thuỷ điện giúp trữ được nhiều nước, giúp điều hoà dòng chảy: gặp mùa nắng thiếu nước sinh hoạt ở miền hạ lưu thì có thể xả bớt trữ lượng nước trong các đập để giúp tăng nước sinh hoạt cho dân và đẩy chất mặn đi xa. Thực vậy, nếu mùa nắng kéo dài, chất mặn từ biển có thể bị đẩy sâu vào nội địa làm đất nhiễm mặn khó trồng trọt được.
Các đập thủy điện, ngoài chức năng sản xuất điện, còn là nơi giúp các sinh hoạt giải trí ngoài trời như chèo thuyền, đua thuyền, trượt nước, cắm trại trên bờ v.v. Đó là những thủy đài hay bể chứa nước tưới nước khi có hạn hán miền hạ lưu.Trong hồ đập có thể thả cá . Tuy nhiên phải kiểm soát nạn đánh bắt cá bừa bãi với các hình thức tàn sát như dùng xung điện, lưới điện, lưới vét, thuốc nổ, v.v…
Tuy nhiên, ngoài các điểm lợi như trên, các đập thuỷ điện cũng kéo theo những ẩn số. Những ẩn số có thể là vỡ đập, và cả việc xả lũ đột ngột kết hợp với lũ thiên nhiên gây nên thảm họa cho các miền hạ lưu. Khi thiết kế các con đập, người ta đã tính đến tất cả các tổ hợp nguy hiểm nhất có thể xảy ra khi con đập đi vào vận hành. Nhưng trong điều kiện biến đổi khí hậu, hiểm họa sẽ gia tăng khi các tiêu chuẩn thiết kế chưa tính toán, đề cập đến yếu tố này. Các công trình thủy lợi chặn dòng trên các dòng sông cũng góp phần làm cá sông bị ảnh hưởng nặng nề đến tập tính sinh sản. Hàng trăm giống di ngư trên dòng sông sẽ bị thoái hóa và có hiểm họa diệt chủng vì chu trình sống của chúng bị chặn đứng tại các con đập vì không còn xuống được cuối nguồn để lớn lên và không về lại thượng nguồn để sinh sản. Phù sa nguồn dinh dưỡng khi bị chặn lại tại những hồ chứa sẽ không lưu chuyển về đồng bằng, gây thiệt hại đến năng suất nông nghiệp, do đó phải cân bằng lại ruộng đồng với phân hoá học. Sự bồi đắp phù sa tại các cửa biển miền hạ lưu cũng giảm đi.
7. Quản trị lưu vực (watershed management).
Lưu vực là vùng lãnh thổ mà mọi lượng nước mưa khi rơi xuống sẽ tập trung lại và thoát qua một cửa ra duy nhất. Trên thực tế, lưu vực thường được đề cập đến là lưu vực sông. Nước là một tài nguyên quan trọng trong mọi sinh hoạt từ y tế, kỹ nghệ, tác động đến mọi lãnh vực như thủy điện, thủy vận, thủy lâm, thủy nông, thủy lợi, thủy văn… Lưu vực một dòng sông càng lớn thì tác động trên miền hạ lưu càng nhiều. Do đó do đó phải quản trị đồng bộ (holistic management) trên mọi lãnh vực để giúp bảo vệ thượng nguồn, điều hoà khi đập tích quá nhiều nước, thông báo cho các vùng hạ lưu khi muốn xả nước. Chất thải nếu không được thanh lọc từ các khu kỹ nghệ được xây dựng ngay bên bờ sông, cũng góp phần làm nguồn lợi thủy sản của dòng sông bị ảnh hưởng . Quản trị lưu vực như chống xói mòn, bảo vệ đất đai, trồng cây đa niên, bảo vệ rừng, tránh nạn làm rẫy v.v. sẽ giúp bảo vệ nguồn nước cũng như tránh bồi đắp trầm tích trong các đập, kéo dài tuổi thọ các đập nước cũng như giảm nhẹ các ảnh hưởng tiêu cực miền hạ lưu như sụp lở bờ sông, lượng phù sa bồi đắp giảm đi, mùa nước nổi ngắn đi khiến nước ít vào ruộng đồng để thau chua, rửa mặn, v.v…
Quản trị lưu vực đòi hỏi phối hợp giữa nhiều ngành như thủy lâm, nông nghiệp, điện lực, ..mục đích giảm bớt xói mòn nếu không đất sẽ trôi lắng xuống hồ nên phải nạo vét thường xuyên. Tập quán nương rẫy du canh của người sắc tộc làm tăng xói mòn nên cần khuyến khích họ trồng những cây cho lợi tức cao hơn với năng xuất b ền vững hơn như cây cà phê, cây trà, cây ăn trái dễ xuất cảng . Cao Nguyên chỉ cần trồng lúa ở đ ồng bằng Lạc Thiện ở Darlac cũng đủ nuôi sống toàn thể dân ở Cao Nguyên.