Hermann Hesse, nhà văn lớn Đức, đã từng nói : “Người thức tỉnh không cố níu kéo hay tái tạo quá khứ. Phải có khả năng biến hoá, sống cái mới với tất cả sinh lực. Nỗi ưu hoài do tiếc nuối cái đã mất sẽ không tốt và không phù hợp với ý nghĩa đích thực của cuộc sống”.
Chính vì vậy bài viết này không nhằm mục đích níu kéo hay tái tạo cái vốn dĩ không còn hiện hữu. Và người viết cũng không phải chỉ sống với hoài niệm. Cái chính ở đây là nhìn thẳng vào hiện tình đất nước Việt Nam, dựa trên những sự kiện đã qua để nhận thức đúng đắn thực trạng của chế độ đương quyền hiện nay.
Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam thường cứ tự hào vỗ ngực với con số tăng trưởng GDP năm 2019 là 7%, cao nhất khối các nước ASEAN.
Thế ta thử cùng nhau nhận định một cách khách quan con số ấy như thế nào. Đồng thời có những đánh giá đúng đắn hơn.
Phát biểu về tình hình – kinh tế xã hội, đại biểu Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ), ủy viên thường trực Ủy ban Tài chánh – Ngân sách của Quốc hội VN, thẳng thắn cho rằng Việt Nam vẫn là quốc gia có thu nhập trung bình thấp, “chưa hóa rồng, hóa hổ”.
“Mặc dù tăng trưởng của Việt Nam với 7%, đạt mức cao trong khu vực và thế giới, nhưng xét về con số tuyệt đối, thì khoảng cách với các nước ngày càng cách xa. Cách đây 30 năm, GDP bình quân đầu người của thế giới hơn Việt Nam 3.900 USD, đến nay khoảng cách đã là hơn 8.000 USD, gấp đôi, và khoảng cách vẫn tăng qua các năm”, ông Hàm chỉ ra. Theo đó, khoảng cách giữa GDP bình quân đầu người của Việt Nam với thế giới năm 2017 là khoảng 8.300 USD, năm 2018 là 8.400 USD.
“Việt Nam đi được nhiều bước, có lúc tốc độ tăng trưởng cao vào tốp đầu của khu vực và thế giới, song đó là những bước ngắn, nên vẫn tụt hậu so với nhiều nước dù bước chậm, nhưng lại đi được những bước dài hơn”, ông Hàm nhận định.
Ngoài ra, ông Hàm còn cho rằng độ mở của nền kinh tế rất lớn, kim ngạch xuất, nhập khẩu khoảng 200% GDP, xuất siêu nhiều năm nhưng người hưởng lợi đa số là doanh nghiệp FDI (Foreign Direct Investment). Do đó, trong tổng GDP của Việt Nam nên cần phải loại trừ yếu tố này mới nhìn nhận phù hợp thực lực của nền kinh tế và thu nhập của người dân.
Chỉ cần 30 năm là một số các quốc gia trong khu vực như Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan đã biến thành rồng, thành hổ. Còn Việt Nam, sau khi bị cộng sản thôn tính trái phép ngày 30/04/1975, vẫn cứ lẹt đẹt cầm cờ theo sau các nước trong khu vực.
Tưởng cũng nên nhắc lại là trước khi bị rơi vào tay cộng sản, Sài Gòn phát triển bậc nhất trong khu vực. Vượt cả Seoul và Singapore. Vậy mà nay nhìn lại mới ngỡ ngàng là đất nước ta đã tụt hậu quá xa. Xét về GDP đầu người, Việt Nam đứng gần cuối bảng trong khối ASEAN. Thua cả Lào.
Thứ tự theo GDP bình quân đầu người (đơn vị: USD/người/năm) 2018:
1. Singapore (61.767)
2. Brunei (33.233)
3. Malaysia (11.237)
4. Thái Lan (6.992)
5. Indonesia (4.052)
6. Philippines (3.095)
7. Lào (2.706)
8. Việt Nam (2.546)
9. Campuchia (1.499)
10. Myanma (1.338)
(Theo công bố năm 2018 của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF – International Monetary Fund))
Từ ngày 30/04/1975, khi đưa đất nước vào hoàn cảnh đói khát và thiếu thốn đủ mọi bề, nay có tăng trưởng 7% thì có gì là tự hào? Dễ hiểu thôi mà. Gã ăn mày có 1 đồng, xin được 50 xu đã là tăng 50%. Bậc triệu phú, dù có thêm chục ngàn, cũng chỉ tăng vài phần trăm. Điều ấy không có nghĩa là gã ăn mày giỏi hơn.
Bốn mươi lăm năm cầm quyền, đảng cộng sản đã kéo nền kinh tế Việt Nam từ đầu bảng xuống cuối bảng. Vậy thì đáng tự hào chỗ nào? Hãy cùng nhau nhìn lại, trong suốt thời gian gần nửa thế kỷ, thực chất những gì đảng cộng sản VN đã làm.
Đó là Sài Gòn nói riêng, Miền Nam nói chúng, đã bị ngược đãi và kéo lùi 30 năm bởi những đường lối và chính sách man rợ.
Sài Gòn và Miền Nam đã bị đánh lên đánh xuống để hầu như không thể nào ngóc đầu lên nổi : Ba lần đổi tiền dã man, một hành vi cướp bóc công khai tài sản của người dân Sài Gòn nói riêng và người dân Miền Nam nói chung.
Lần đầu ngày 22-9-1975, người dân Sài Gòn chỉ có vỏn vẹn 12 tiếng đồng hồ (tức từ 11 giờ đến 23 giờ cùng ngày) để đổi tiền; hối xuất 500đ VNCH = 1đ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam; mỗi gia đình chỉ được đổi 100.000 đồng cũ ra thành 200 đồng mới để tiêu dùng thường nhật, phần còn lại, nhà nước giữ. Không nói đến giới kinh doanh hay bậc thượng lưu, một gia đình công chức thời bấy giờ cũng có hơn gấp ba đến gấp bốn lần số tiền ấy.
Lần thứ hai ngày 3-5-1978, sau khi đảng lao động (tức đảng cs bây giờ) thống nhất Việt Nam năm 1976, hầu xóa bỏ tư sản dân tộc, xây dựng hợp tác xã. Từ sông Bến Hải trở ra ngoài bắc thì một đồng mới trị giá bằng một đồng cũ (tiền phát hành năm 1958); phía nam sông Bến Hải, một đồng mới bằng 0,80 đồng cũ (phát hành năm 1975). Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử cận đại cả nước Việt Nam chỉ dùng một mẫu tiền chung.
Dân thị thành được đổi tối đa:
– 100 đồng cho mỗi hộ 1 người;
– 200 đồng cho mỗi hộ 2 người;
– Hộ trên 2 người thì người thứ 3 trở đi được đổi 50 đồng/người;
– Tối đa cho mọi hộ thành phố bất kể số người là 500 đồng.
Dân quê được phép đổi theo ngạch sau:
– 100 đồng cho mỗi hộ 2 người ;
– Hộ trên 2 người thì người thứ 3 trở đi được đổi 30 đồng/người;
– Tối đa cho mọi hộ dưới quê bất kể số người là 300 đồng.
Số tiền đang có trên mức tối đa phải khai nộp và ký thác vào ngân hàng Nhà Nước.
Lần thứ ba ngày 14-9-1985, tỷ lệ 10 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũ ăn 1 đồng tiền NHNN mới.
Số tiền đang lưu hành khi đổi cũng bị hạn chế theo những số lượng nhất định:
• Mỗi gia đình chỉ được đổi 20.000 đồng cũ lấy 2.000 đồng mới
• Hộ độc thân chỉ được đổi 15.000 đồng cũ lấy 1.500 đồng mới
• Hộ kinh doanh công thương nghiệp thì được đổi 50.000 đồng cũ lấy 5.000 đồng mới
Lần đổi tiền thứ ba này đã thật sự lột sạch tới những đồng bạc ki cóp cuối cùng trong những gia đình miền Nam, trong khi đó miền Bắc không bị ảnh hưởng tí nào vì bao năm đã quen sống với chế độ tem phiếu và bản thân họ cũng chẳng có gì trong chế độ cộng sản Bắc Việt.
Ngay trong thời gian bầm dập với chính sách ngăn sông cấm chợ ngu xuẩn đến cùng cực, người dân Sài Gòn vẫn năng nổ bươn chải ngoi lên. Lương nhà nước trả công nhân viên chức chỉ đủ sống một tuần, nhưng người Sài Gòn đã tiếp nhận từng thùng đồ từ thân nhân ở nước ngoài gởi về rồi đem ra vỉa hè ngồi bán nuôi gia đình. Và cũng nhờ đó mà xã hội Việt Nam mới có được một số thuốc men và mặt hàng cần thiết tối thiểu trong sinh hoạt thường nhật, từ cây bút quyển tập đến cục xà-bông, cái quần, cái áo, cây kem đánh răng. NHƯ VẬY CHÍNH NGƯỜI DÂN SÀI GÒN NÓI RIÊNG VÀ MIỀN NAM NÓI CHUNG ĐÃ CỨU CHẾ ĐỘ ĐIÊN RỒ THOÁT CHẾT CHỨ KHÔNG PHẢI CHẾ ĐỘ XHCN ĐÃ MANG LẠI THỊNH VƯỢNG CHO SÀI GÒN. Đảng ra sức ngăn cản nhưng không được, cuối cùng thấy nhờ Sài Gòn mà kinh tế sáng sủa hơn, mới lạch đạch theo sau. Rồi từ đó rút ra bài học, cởi trói phần nào cho dân Miền Nam, áp dụng đường lối cởi mở hơn trên cả nước mà chúng gọi là “đổi mới”. Nhờ vậy thoát khỏi cảnh đói.
Và hôm nay cũng thế, Sài Gòn luôn đi trước. Thu nhập bình quân của người dân Sài Gòn năm 2018 đạt 5.538 USD/người/năm. Ngoạn mục hơn, Sài Gòn chỉ chiếm 0,63% diện tích và 8,8% dân số cả nước nhưng đóng góp đến 21% GDP và 30% nguồn thu ngân sách quốc gia
Với sự đóng góp như thế nhưng Sài Gòn và Miền Nam, cho tới hôm nay, vẫn luôn luôn chịu nhiều thiệt thòi trong cơ chế quản lý của đảng csvn. Một sự phát triển kỳ thị, lệch pha : Miền Nam nuôi cả nước mà hệ thống đường cao tốc chỉ bằng 30% của Miền Bắc. Như vậy, cần xét lại tính ưu tiên, hiệu quả, khi mạng lưới cao tốc hiện nay đang trong tình trạng nơi cần thì thiếu, nơi kém hiệu quả thì thừa.
“Chỉ cần tăng 10% chất lượng hạ tầng tại khu vực kinh tế trọng điểm phía nam thì sức hút đầu tư sẽ tăng lên tới 24%, đời sống người dân cũng tăng theo tỉ lệ tương đương. Do đó, đổ tiền vào hoàn thiện hạ tầng, cải thiện giao thông khu vực miền Nam sẽ tạo ra các tác động lan tỏa kinh tế lớn hơn nhiều so với các vùng khác.”
(TS Dương Như Hùng, Khoa Quản lý công nghiệp, Trường ĐH Bách khoa TP.HCM)
Vậy mà bất chấp mọi luận cứ kinh tế, Hà Nội chỉ điên cuồng củng cố quyền lợi thống trị của đảng cộng sản cầm quyền. Dễ nhận thấy, trong danh sách bổ sung các tuyến cao tốc vào quy hoạch, khu vực phía bắc vẫn được ưu tiên với chiều dài chiếm 2/3, còn lại là khu vực phía nam và miền Trung, Tây nguyên. Đây cũng là thực trạng chung “lệch pha” trong đầu tư cao tốc ở VN hiện nay.
Chỉ tính riêng Hà Nội, đã có 5 tuyến cao tốc nối thẳng hình nan quạt tạo thành mạch máu với các vùng kinh tế trọng điểm phía bắc đã đi vào khai thác. Trong khi đó, đánh giá về hiệu quả sinh lời kinh tế theo nghiên cứu VITRANSS 2 (Vietnam National Transport Strategy Study) do JICA (Japan International Cooperation Agency) phối hợp với Bộ GTVT thực hiện trước đây, nhiều tuyến cao tốc phía bắc được đánh giá là suất sinh lời kinh tế thuộc dạng thấp nhất trong hệ thống cao tốc cả nước, như Thái Nguyên – Chợ Mới (5,8%), Hòa Lạc – Hòa Bình (7,3%). Đáng chú ý, nhiều tuyến cao tốc phía nam dù được đánh giá có suất sinh lời kinh tế thuộc dạng cao nhất cả nước như Biên Hòa – Vũng Tàu (24,4%), TP.HCM – Mộc Bài (16,4%), Long Thành – Nhơn Trạch – Bến Lức (15,9%), đường Vành đai 3 TP.HCM (13,7%), tới nay vẫn chưa được thực hiện.
Bị trói tay, trói chân và bị tham nhũng đục khoét vô tội vạ mà còn như thế mà . Cứ nhìn mấy vụ cướp đất trắng trợn của dân ở Thủ Thiêm thì rõ. Thử hỏi, nếu như ngày nay, Việt Nam có một nhà nước pháp quyền, do dân bầu thực sự, trọng dụng nhân tài, có luật lệ nghiêm minh tạo được lòng tin và thu hút các nhà đầu tư phương Tây như Châu Âu, Úc, Mỹ, Canada, v.v. thay vì chỉ lệ thuộc vào Trung Cộng, thì Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung còn phát triển kinh khủng đến mức độ nào ?
Rõ ràng Hà Nội đã hy sinh phát triển đất nước vì quyền lợi hẹp hòi của đảng cs.
“Một quan chức cao cấp của Ban Tuyên giáo T.Ư, ông Vũ Ngọc Hoàng, đã có một phát biểu gây ấn tượng mạnh: “Cách đây bốn, năm mươi năm, VN và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, tôi rà lại tư liệu thì thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại VN và VN cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại VN làm ông chủ, làm quản lý, còn người VN ở Hàn Quốc thì chủ yếu làm ôsin. Nghe mà xót lòng” (trích báo Tuổi Trẻ)
Như thế, với lối cai trị độc tài, đưa con cháu và thân nhân vào nắm các vị trí then chốt trong guồng máy chính quyền cũng như các xí nghiệp quốc doanh và hệ thống ngân hàng mặc dù bất tài, vô đức, đảng csvn rõ ràng là rào cản sự phát triển của đất nước chứ không phải là động lực phát triển như họ cố tình lấp liếm. Chúng ta cần phải làm cho những người đang sống tại Việt Nam nhận thức được điều này. Có nhận thức thì mới có hành động.
Đảng cộng sản VN hãy bỏ đi cái thói ngông cuồng khoác lác, hễ mở miệng là cứ “đất nước ta có bao giờ được như hôm nay”(!) Không nói đâu xa xôi, thử nhìn các nước trong khu vực để có khái niệm về lực cản của đảng csVN đối với sức phát triển của đất nước. Không cần so với Seoul hay Singapore, chỉ so với Malaysia thôi là đủ rõ. Trước 1975, Kuala Lumpur thua Sài Gòn nhiều. Nhưng giờ đây thì tp hcm thua Kuala Lumpur xa lắm. Hãy xem hệ thống chống ngập với đường hầm Smart ở Kuala Lumpur, thủ đô Malaysia thì biết.
Từ 2007 người ta đã tiến như thế mà mãi tận 2019, một tiến sĩ của Việt Nam, bà Phan Thị Hồng Xuân còn đề xuất dùng lu hứng nước mưa chống ngập. Bà Xuân đâu phải “dân ngu khu đen”, đường đường là đại biểu Hội đồng nhân dân tp., trưởng Khoa đô thị học – Trường đại học khoa học xã hội nhân văn tp.hcm. Ở cương vị đó đương nhiên bà phải là tầng lớp ưu tú của đảng cộng sản VN. Thế mới biết tầm nhìn của giới lãnh đạo csVN là như thế nào!
Đó không phải là trường hợp cá biệt hay hiếm hoi. Mà toàn bộ giới “lãnh đạo” của csVN đều như thế. Trừ phi cố tình nhắm mắt làm ngơ, chứ mở mắt là thấy nhan nhản nào là Bauxit Tây Nguyên, Formosa, các nhà máy nhiệt điện vận hành bằng than của Trung cộng phế thải đưa qua VN, đường sắt Hà Nội – Cát Linh, các đặc khu kinh tế của bọn Tàu mà ngay nhà cầm quyền csVN cũng không được bước chân vào, rồi cả việc ký những thoả thuận hết sức thua thiệt trong việc khai thác chung dòng sông Mékong do ngu dốt, khiến dân Miền Tây nước ta phải khổ sở vì hạn hán và ngập mặn.
Chỉ riêng vụ Formosa xả thải các chất độc hại trực tiếp ra biển, huỷ hoại môi trường biển diện rộng và gây thiệt hại vô lường cho người dân các tỉnh ven biển Miền Trung đã bộc lộ sự yếu kém trong quản lý của đảng csvn. Cách xử lý “khủng hoảng” của các cơ quan nhà nước là quá lúng túng, non nớt và thiếu chuyên nghiệp, hậu quả tất yếu của lối cai trị “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Trống đánh xuôi kèn thổi ngươc, giữa Cục quản lý tài nguyên nước và Tổng cục môi trường, giữa Bộ trưởng và Thứ trưởng Tài Nguyên Môi Trường (TNMT), mà cả giữa Bộ TNMT và Bộ Nông Nghiệp Phát Triển Nông Thôn (NNPTNT), giữa các Viện của Viện Khoa Học VN, giữa thông tin đưa trên truyền thông đại chúng với thông tin từ các cơ quan trách nhiệm liên quan.
Ở VN hầu như quy định luật pháp nào cũng có. Nhưng chỉ trên giấy tờ hoặc chồng chéo, vô hiệu quả. Nếu không có chuyện xảy ra thì cơ quan nào cũng đòi quản lý (để “chấm mút”, chỉ chết doanh nghiệp và người dân với đủ loại thủ tục, giấy phép!!!), còn khi xảy ra chuyện thì lại “trách nhiệm tập thể” hoặc “trách nhiệm của những người lãnh đạo nhiệm kỳ trước”. Cuối cùng chẳng ai có trách nhiệm, cũng chỉ có doanh nghiệp và người dân chịu trận. Đó là sự tắc trách của chế độ độc tài đảng trị, của lãnh đạo cấp cao, từ cấp tỉnh, Bộ tới Trung ương. Chưa qua tham khảo ý kiến các chuyên gia đã vội cấp phép vì trót nhận đút lót. Thậm chí các cơ quan quản lý của csvn không nắm đầy đủ tất cả các chất độc hại và liều lượng Formosa sử dụng cũng như nhập vào VN. Ký nhượng những đặc quyền to lớn đưa tới mất chủ quyền Quốc gia. Cam chịu chấp thuận số lượng lớn lao động người Hoa không cần thiết. Đó là những “con ngựa thành Troie” rất nguy hiểm nếu nổ ra xung đột quốc gia giữa Việt Nam với Trung Cộng.
Khi thảm họa xảy ra thì nhà chức trách csvn không minh bạch, cố tình bưng bít và không hợp tác với các tổ chức chuyên môn tư nhân và nước ngoài để tiến hành nhanh, tốt và khách quan việc điều tra hầu có thể quy trách nhiệm cụ thể và nghĩa vụ đền bù thiệt hại cho dân và đất nước VN, đối với từng đối tượng. Chẳng những thế, bộ máy công an còn ra sức bịt miệng truyền thông trong nước trong việc tìm kiếm nguyên nhân cũng như điều tra về xáo trộn và thiệt hại mối sinh nhai của người dân ; ngăn cấm, bắt bớ người dân biểu đạt chính kiến của mình thông qua nhiều hình thức, kể cả hình thức biểu tình ôn hòa.
Kinh tế và môi trường là như thế. Lãnh vực tài chánh cũng không có gì khả quan.
Tình trạng nợ công ngày càng gia tăng. Dù thu ngân sách hàng năm vẫn liên tục tăng cao, nhưng vẫn không bù nổi chi, theo Bộ Tài chính. Năm 2019, thu ngân sách dự kiến thấp hơn chi ngân sách 222 ngàn tỷ đồng. Chính vì thế mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam dự kiến năm 2020 sẽ phải vay để bù đắp bội chi ngân sách và trả nợ gốc 2019 lên tới hơn 460 ngàn tỷ đồng (khoảng 21 tỉ USD). Con số này năm 2018 chỉ mới là 363 ngàn tỷ đồng và năm 2017 là 340 ngàn tỷ đồng. Hậu quả : Nhà nước cộng sản Việt Nam phải vay nợ mới để trả nợ cũ.
Mới đây, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s Investors Service (Moody’s) thông báo về việc xem xét hạ mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia đối với các khoản vay bằng nội tệ và ngoại tệ của Việt Nam. Cơ sở để Moody’s đưa ra xem xét này là đánh giá cho rằng những hạn chế trong công tác phối hợp giữa các cơ quan chánh phủ dẫn đến tình trạng chậm thanh toán nghĩa vụ nợ chánh phủ.
Chưa kể là nền kinh tế VN hiện nay hoàn toàn lệ thuộc vào Trung cộng. Thực tế tỉ trọng vốn đầu tư của TC vào Việt Nam thấp nhưng lại chiếm những ngành trọng điểm. Còn về xuất khẩu ở các lãnh vực, Việt Nam bị TC khống chế tuyệt đối (xuất khẩu gạo, nông sản…). Gọi là tăng trưởng nhanh nhưng thực chất đồng tiền chủ yếu chui vào túi các doanh nghiệp có vốn đầu tư TC rồi chảy ra khỏi VN. Người dân vốn đã không được hưởng lợi, lại còn phải chịu bao nhiêu các thứ thuế. Chỉ một nhúm bọn tư bản đỏ là thực sự có lợi. Ngay luật đầu tư của VN cũng nhiều kẽ hở để TC thao túng. Các dự án đưa ra đấu thầu thì hấu hết đều rơi vào tay TC. Tại sao vậy? Trước hết do chính quy định của csvn khi đấu thầu là chỉ chú trọng yếu tố giá cả. Do vậy TC dùng xảo thuật chào với giá thấp nhưng mà không nói rõ sẽ đảm bảo chất lượng như thế nào. Họ đã làm mù mờ các điều kiện kỹ thuật mà chỉ nhấn mạnh điều kiện về giá cả. Rồi VN lao theo và sa vào bẫy. Bằng cách đó VN đã đưa tất cả những dự án quan trọng vào tay TC. Cuối cùng tiền mất, tật mang. Các công trình vừa mới đưa vào sử dụng đã hư hỏng, thậm chí không đưa vào sử dụng được. Đường sắt Hà Nội – Cát Linh là điển hình. Ngu dốt mà cai trị thì hậu quả không thể lường.
Đó là chưa bàn tới vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Tổ quốc, vấn đề văn hoá giáo dục hay văn học nghệ thuật.
Tóm lại, cái chế độ mà Hà Nội muốn áp đặt lên toàn cõi Việt Nam tự nó là một lực cản ghê gớm đối với sự phát triển của đất nước. Nó hoàn toàn đi ngược lại lợi ích của toàn dân. Một xã hội phát triển không thể bị kềm chế bởi một đảng độc tài cầm quyền hoàn toàn bị giam cầm trong một chủ thuyết đã lỗi thời và không phù hợp với thực tế. Nhất là nó lại rập khuôn cái lối làm của Bắc Kinh mà cả thế giới đều dè chừng vì tham vọng ngông cuồng muốn thống trị thế giới. Đã hết rồi cái thời mà các nước công nghiệp phát triển dễ dãi cho TC hưởng quy chế “tối huệ quốc” (Most Favoured Nation) khi vừa thất thểu thoát khỏi tai ương mang tên Mao Trạch Đông. Giờ đây thế giới đã cảnh giác trước một tên “lưu manh” lộ nguyên hình như TC dưới trướng Tập Cận Bình với thói ăn cắp kỹ thuật, thu gom các công ty công nghệ mũi nhọn nổi tiếng, mua bất động sản, đất đai, nhất là đất đai nông nghiệp khắp nơi, lấn chiếm Biển Đông… Và TC cũng không còn lừa được ai với cái gọi là “Viện Khổng Tử” mà thực chất là ổ gián điệp nguy hiểm, hay cái dự án “một vành đai, một con đường” định xưng bá chủ toàn cầu.
Không còn con đường nào khác : Việt Nam phải quay về với thế giới tiến bộ, tái lập tự do dân chủ, từ bỏ ý thức hệ Mác-Lê cũng như cái gọi là “tư tưởng” HCM, mở rộng tư duy, kích thích sáng tạo, chấp nhận đa nguyên, nếu không muốn tự sát, bám vào Bắc Kinh và chủ nghĩa cộng sản. Càng trì hoãn thì cái kết cuộc càng bi thảm. Hãy nhìn vào Hong Kong và Đài Loan!
Trần Hữu Quyền